Xuất khẩu sắt thép trong 7 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh

thiết kế web btccorp
thiết kế website btccorp
công ty thiết kế web btccorp

Xuất khẩu sắt thép trong 7 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh

  • 13/08/2020
  • 128

Như vậy, giá sắt thép xuất khẩu tăng 11,3%, đạt trung bình 742,8 USD/tấn. Cụ thể, xuất sang Hồng Kông (Trung Quốc) đạt mức cao nhất 2.995,8 USD/tấn, tăng 33,4%. Giá xuất khẩu sang Đức tăng mạnh 53,5%, đạt 2.313,9 USD/tấn. Bên cạnh đó, một số thị trường cũng xuất được mức giá tốt như: Thụy Sĩ 1.717 USD/tấn, tăng 302%; Ucraina 1.463 USD/tấn, tăng 53,6%; Thổ Nhĩ Kỳ 1.595 USD/tấn, tăng 45%; Trung Quốc 1.503 USD/tấn, tăng 6,9%.

Việt Nam xuất khẩu sắt thép
Việt Nam xuất khẩu sắt thép chủ yếu sang các nước Đông Nam Á, chiếm tới 57%
trong tổng lượng sắt thép xuất khẩu của cả nước

Trong khi đó, xuất khẩu sang Đài Loan (Trung Quốc) có mức giá thấp nhất 556,7 USD/tấn, giảm 14% so với cùng kỳ; xuất sang Philippines cũng chỉ ở mức 573 USD/tấn; Pakistan 596 USD/tấn; Hàn Quốc 637,9 USD/tấn; Bangladesh 640 USD/tấn.

Được biết, Việt Nam xuất khẩu sắt thép chủ yếu sang các nước Đông Nam Á, chiếm tới 57% trong tổng lượng sắt thép xuất khẩu của cả nước và chiếm 52,6% trong tổng kim ngạch, đạt 1,93 triệu tấn, tương đương 1,33 tỷ USD. Năm nay, xuất khẩu tăng trưởng mạnh 40,7% về lượng và tăng 59,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong tổng khối lượng sắt thép xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á thì 3 thị trường: Campuchia (chiếm 37%), Malaysia (20,2%) và Indonesia (19,2%) là chủ yếu. Trong đó, xuất sang Campuchia 717.572 tấn, tương đương 462,73 triệu USD, tăng 49% về lượng và tăng 77,9% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu tăng 19,4%, đạt 644,9 USD/tấn.

thị trường xuất khẩu sắt thép của Việt Nam
Những thị trường xuất khẩu sắt thép chủ yếu của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2018

Xuất khẩu sang Malaysia cũng tăng mạnh cả về giá, lượng và kim ngạch, với mức tăng tương ứng 10,7%, 88,5% và 108,6%, với 391.607 tấn, tương đương 266,98 triệu USD, giá bình quân 681,8 USD/tấn. Xuất sang thị trường Indonesia tăng 8,8% về giá, đạt 792,8 USD/tấn, tăng 22,3% về lượng, đạt 372.514 tấn và tăng 33% về kim ngạch, đạt 295,33 triệu USD.

Hoa Kỳ được biết đến thị trường tiêu thụ sắt thép lớn thứ 2 của Việt Nam (sau khối Đông Nam Á), chiếm 15,6% trong tổng khối lượng xuất khẩu sắt thép của cả nước và chiếm 17,9% trong tổng kim ngạch, đạt 532.779 triệu tấn, tương đương 452,81 triệu USD, tăng mạnh 71,6% về lượng và tăng 81,7% về kim ngạch. Giá xuất khẩu tăng 5,9%, đạt 850 USD/tấn.

Mặc dù chỉ chiếm 10% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu sắt thép của cả nước, nhưng lượng xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang các nước EU lại tăng rất mạnh, đạt 104,2% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 336.068 tấn và kim ngạch tăng 118,6%, đạt 274,5 triệu USD. Trong đó, chủ yếu là xuất sang Bỉ, chiếm 57% khối lượng và 54% kim ngạch.

Tuy nhiên, hiện hai nhóm sản phẩm thép của Việt Nam xuất sang EU có nguy cơ bị áp thuế tự vệ. Một là sản phẩm thép tấm mạ/tráng thiếc, crôm, mã HS: 7209 18 99, 7210 11 00, 7210 12 20, 7210 12 80, 7210 50 00, 7210 70 10, 7210 90 40, 7212 10 10, 7212 10 90, 7212 40 20, có tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam ở mức dưới 3%. Nhưng nếu sản phẩm này tăng trưởng mạnh trong những tháng tới, thì sẽ có nguy cơ bị EU áp dụng biện pháp tự vệ chính thức sau ngày 3/2/2019.

Hai là sản phẩm thép tấm mạ/tráng vật liệu khác (sơn, quét vécni, phủ plastic,…), mã HS: 7210 70 80, 7212 40 80 có tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam đã vượt quá 3%, nên có nguy cơ cao bị EU áp dụng biện pháp tự vệ chính thức sau ngày 3/2/2019 nếu vẫn tiếp tục tăng trưởng trong những tháng tới.

Nguồn: batdongsan.com.vn
zalo